Nếu không được cấp cứu ngay lập tức, ngừng tim đột ngột có tỷ lệ tử vong rất cao, ước tính khoảng 90%, hoặc di chứng não không hồi phục.
Ngừng tim xảy ra bất ngờ
Ngừng tuần hoàn hô hấp (cộng đồng vẫn thường gọi là ngừng tim), xảy ra bất ngờ, ở mọi lứa tuổi, có thể xảy ra ở những người chưa từng được phát hiện mắc bệnh tim mạch.

Ngừng tuần hoàn hô hấp xảy ra đột ngột nhưng cũng có thể xuất hiện dấu hiệu cảnh báo sớm như đau tức ngực, đánh trống ngực, khó thở, hồi hộp, mặt xanh tái…
Đó là lưu ý của bác sĩ Nguyễn Đình Thuyên (Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện E), khi hướng dẫn cán bộ, sinh viên Trường đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) về kỹ năng “sơ cứu nhanh giành sự sống”.
Các buổi tập huấn được Bộ môn Cấp cứu ngoại viện, Trường đại học Y dược (Đại học Quốc gia Hà Nội) triển khai trong tháng 9.
Nói về sự cần thiết kỹ năng sơ cấp cứu trong trường hợp khẩn cấp, PGS-TS Nguyễn Anh Thu, Phó hiệu trưởng Trường đại học Y dược (Đại học Quốc gia Hà Nội), chia sẻ: “Khi tình huống bất ngờ xảy ra thì kỹ năng sơ cấp cứu sẽ mang tính quyết định. Chúng tôi triển khai các lớp hướng dẫn kỹ năng sơ cấp cứu thường gặp như: biến cố tim mạch, chấn thương, đuối nước cho cán bộ, sinh viên các trường thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Dù có thể không thường xuyên sử dụng, nhưng nếu không có sự chuẩn bị thì hậu quả xảy ra sẽ rất đáng tiếc”.
Những nguyên tắc quan trọng cần nhớ
Tham gia hướng dẫn cho các sinh viên, bác sĩ Thuyên cho biết, ngừng tuần hoàn hô hấp là tình trạng tim đột ngột ngừng bơm máu, khiến máu không được đưa tới các cơ quan trong cơ thể. Nếu không được cấp cứu ngay lập tức, tình trạng này có thể dẫn đến tử vong với tỷ lệ rất cao (khoảng 90%) hoặc để lại tổn thương thần kinh nặng nề, như di chứng não không hồi phục.
Người bị ngừng tim mất ý thức đột ngột, không có phản ứng khi được lay gọi; ngưng thở hay ngáp (quan sát di động của lồng ngực và bụng, nếu ngực bụng không di động, đánh giá là “ngừng thở”); không thấy mạch lớn đập (mạch cảnh ở cổ và bẹn).
Cấp cứu ngừng tuần hoàn hô hấp là duy trì nhịp thở, ngăn nguy cơ não ngừng hoạt động với biến chứng gây tổn thương các bộ phận khác trong cơ thể, cần nhanh chóng và đúng cách.
Theo bác sĩ Thuyên, khi phát hiện một nạn nhân ngừng tim, trước hết cần phải kiểm tra xem môi trường xung quanh có an toàn không, khi tiếp cận nạn nhân, đồng thời chú ý đến sự an toàn của chính người thực hiện sơ cứu. Nếu môi trường xung quanh không an toàn, hãy di chuyển nạn nhân đến một vị trí an toàn.
Trước khi chạm vào nạn nhân, lưu ý đeo găng tay cao su hoặc bọc tay của mình bằng túi ni lông, tránh tiếp xúc với máu hoặc chất nôn (nếu có). Bên cạnh đó, cần nhớ phải sử dụng khẩu trang để thực hiện hô hấp nhân tạo (nếu có). Sau khi chạm vào nạn nhân phải rửa tay cẩn thận”.
Chuyên gia tim mạch cũng lưu ý, có thể nhanh chóng sử dụng máy sốc điện tim trong cộng đồng cho cấp cứu ngưng tim. Hiện, tại một số sự kiện lớn, sân bay, chung cư có trang bị thiết bị này.
Cách hồi sức tim phổi – ép tim sơ cứu người bị ngừng tim
Ngửa đầu nạn nhân ra phía sau; đặt ngón trỏ và ngón giữa lên cằm nạn nhân; đặt tay còn lại lên trán nạn nhân.
Nâng cằm nạn nhân lên trong khi ấn trán, ngửa đầu ra sau, khai thông đường thở. Đưa luồng khí vào cơ thể nạn nhân bằng hô hấp nhân tạo miệng (hoặc miệng qua mặt nạ). Nếu không làm được, có thể chỉ ép tim.
Khi thực hiện ép tim: vị trí ép tim tại 1/2 dưới xương ức.
Tư thế người ép tim: cánh tay và cẳng tay phải thẳng trục để truyền lực ép từ vai của mình xuống lồng ngực người bệnh.
Tỷ lệ ép tim: 30:2 (30 lần ép tim, 2 lần thổi ngạt). Đối với trẻ em tỷ lệ 15:2 (15 lần ép tim, 2 lần thổi ngạt). Cần 2 người cấp cứu. Trường hợp chỉ có 1 người cấp cứu thì chỉ nên ép tim đơn thuần, tránh ngắt quãng vì những động tác khác.
Ép sâu ít nhất 5 cm (trẻ em để khoảng 1/3 ngực bị lún xuống).
Tần số ép tim: 100 – 120 lần/phút.
Sau mỗi lần ép, đảm bảo lồng ngực trở về vị trí bình thường.
Nguồn: https://thanhnien.vn/dau-hieu-canh-bao-bien-co-ngung-tim-va-cach-so-cuu-185250918152819804.htm